Người dân ngày càng kém "mặn mà" với tiền gửi có kỳ hạn nhưng lại gửi không kỳ hạn nhiều hơn.
Thanh khoản của các ngâ
n hàng vẫn dồi dào nhờ sự hỗ trợ m?
?nh m??? từ NHNN, một số cũng vay được lượng vốn lớn từ các tổ chức tín dụng quốc tế để thay thế cho việc huy đ
ộng trong nước.
Lãi suất chỉ
tăng ở một số ngâ
n hàng nhỏ
Trong khoảng 1 tháng trở lại đây, nhiều ngâ
n hàng đã có điều chỉnh về lãi suất huy đ
ộng theo xu hướng
tăng. Chẳng hạn, SCB
tăng lãi suất huy đ
ộng online 0,2% ở kỳ hạn từ 13 tháng trở lên, dao đ
ộng từ 7,05 - 7,15%/năm; Eximbank
tăng từ 0,1 - 0,3%/năm và mức lãi suất huy đ
ộng cao nhất là 6%/năm cho kỳ hạn 15 tháng; OCB
tăng 0,2%/năm, mức lãi suất cao nhất là 6,15%/năm ở kỳ hạn 36 tháng,…
Đ
ộng thái
tăng lãi suất được cho là để hút người gửi tiền trở lại, sau khi nguồn vốn huy đ
ộng này sụt giảm trong quý 3/2021.
Theo số liệu từ Ngâ
n hàng Nhà nước, cuối tháng 9/2021, tiền gửi của dân cư chỉ
tăng 2,91% so với đầu năm, đáng chú ý là từ tháng 6 trở lại đây, nguồn huy đ
ộng này liên tục giảm 1.000-3.000 tỷ đồng hàng tháng. Báo cáo tài chính quý 3/2021 cũng cho thấy nhiều ngâ
n hàng có thị trường trọng tâm ở các tỉnh, thành phía Nam ghi nhận tiền gửi sụt giảm.
Ngoài ra, theo nhận định mới đây của bộ phận phân tích chứng khoán VCBS, việc nhiều ngâ
n hàng được nới room tín dụng và chỉ còn 1 tháng cuối năm để giải ngân đã tạo áp lực
tăng lãi suất trong ngắn hạn. Tuy nhiên, mức
tăng đáng kể hiện được ghi nhận ở các ngâ
n hàng quy mô nhỏ.
Áp lực
tăng lãi suất năm 2022 là không lớn
VCBS cũng đánh giá áp lực
tăng lãi suất trong năm 2022 là không lớn.
Thứ nhất, thanh khoản hệ thống ngâ
n hàng được hỗ trợ m?
?nh m??? từ hoạt đ
ộng mua ngoại tệ của Ngâ
n hàng Nhà nước trong thời gian qua, lượng tiền VND được bổ sung vào hệ thống ngâ
n hàng ở nửa cuối năm theo kênh này ước tính vào khoảng 200-300 nghìn tỷ đồng.
Thứ hai, các chỉ số liên quan như tỷ lệ cấp dư nợ tín dụng trên vốn huy đ
ộng (LDR), tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn vẫn ở mức an toàn nên các ngâ
n hàng chưa có áp lực
tăng mạnh tiền gửi để đáp ứng các chỉ số này.
Thứ ba, một số ngâ
n hàng có thể sử dụng vốn vay từ các tổ chức tín dụng quốc tế để thay thế cho việc huy đ
ộng trong nước.
Trong thời gian gần đây, nhiều ngâ
n hàng lớn cũng đã đạt được các khoản vay hợp vốn với giá trị lớn mà chi phí thấp. Ví dụ, VietinBank nhận được khoản vay hợp vốn giá trị 1 tỷ USD từ 20 bên. Techcombank cũng huy đ
ộng được khoản vay hợp vốn nước ngoài 800 triệu USD, lãi suất rất thấp dưới 2%/năm. VPBank thì đạt được thỏa thuận với SMBC về khoản vay hợp vốn giá trị 300 triệu USD,…Nhìn chung, nguồn vốn huy đ
ộng từ các tổ chức tài chính nước ngoài thường có kỳ hạn dài và lãi suất thấp hơn so với trong nước.
VCBS cho rằng, các ngâ
n hàng quy mô nhỏ cũng có thể tối ưu hóa nguồn vốn huy đ
ộng nhờ vào các tổ chức tín dụng quốc tế như IFC, ADB,…Mức lãi suất của các khoản cấp vốn này thường được neo leo lãi suất liên ngâ
n hàng quốc tế và hiện tại ở mức khoảng 1%/năm.
Sau khi huy đ
ộng nguồn vốn ngoại tệ, các ngâ
n hàng thường phải quy đổi sang tiền VND bằng cách mua hoặc sử dụng hợp đồng SWAP. Mức chi phí hàng năm cho hợp đồng này ghi nhận mức giảm tích cực trong giai đoạn đầu năm khi thị trường có kỳ vọng về xu hướng giữ giá và
tăng giá của tiền VND. Tổng chi phí huy đ
ộng ngoại tệ giảm còn khoảng 4%/năm cho kỳ hạn dài và thấp hơn với các hợp đồng kỳ hạn ngắn. Nhờ vậy, một số ngâ
n hàng quy mô nhỏ có kế hoạch
tăng sử dụng nguồn vốn huy đ
ộng ngoại tệ để tối ưu hóa chi phí vốn.
Nhiều ngâ
n hàng có nguồn vốn rẻ
tăng mạnh
Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn giảm sâu xuống mức không còn đủ hấp dẫn đã khiến dòng tiền chảy sang các kênh đầu tư chứng khoán, bất đ
ộng sản trong 2 năm trở lại đây. Theo VCBS, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn trung bình toàn hệ thống ghi nhận giảm 1,5
– 2% tùy kỳ hạn so với thời điểm trước dịch.
Trong khi đó, người dân lại có xu hướng gửi tiền không kỳ hạn nhiều hơn. Bối cảnh các thị trường đầu tư tài sản như BĐS, Chứng khoán sôi đ
ộng đã thúc đẩy thêm một phần lớn tiền gửi kỳ hạn dài chuyển qua tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi kỳ hạn ngắn. Từ đó, tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn trong tổng tiền gửi (tỷ lệ CASA) đã
tăng lên 20,1% vào quý 3/2021.
VCBS cho rằng, xu hướng lãi suất sẽ duy trì ở mức thấp trong thời gian tới, khiến cho tỷ lệ CASA toàn ngành tiếp tục
tăng lên. Nhiều ngâ
n hàng sẽ có được nguồn huy đ
ộng vốn dồi dào hơn và giảm được chi phí vốn trong dài hạn nhờ số hóa hệ thống.
Cụ thể, tỷ lệ dân số Việt Nam có tài khoản ngâ
n hàng hiện mới ở mức 31%, thấp hơn so với các nước trong khu vực. Với xu hướng phát triển số hóa và sự ra đời của công nghệ xác thực từ xa (eKYC) giúp mở tài khoản không cần đến chi nhánh ngâ
n hàng sẽ giúp cho tỷ lệ này
tăng lên. Các ngâ
n hàng tập trung phát triển trải nghiệm khách hàng ở giai đoạn hiện tại có thể được hưởng lợi lớn nhờ xu thế này khi
tăng được tập khách hàng sử dụng dịch vụ. Theo NHNN, từ tháng 3/2021 đến tháng 10/2021, hơn 1,8 triệu tài khoản thanh toán đã được mở theo phương thức eKYC.
Lãi suất huy đ
ộng cao nhất trên thị trường hiện nay là 7%/năm, một số ngâ
n hàng sẽ yêu cầu điều kiện về số tiền gửi tối thiểu khá lớn để nhận được mức lãi suất này. Ở mức 6,7-6,9%/năm thì có nhiều ngâ
n hàng áp dụng mà không yêu cầu số tiền tối thiểu như SCB, BacABank, CBBank, Kienlongbank,...
Đa số các ngâ
n hàng còn lại sẽ niêm yết lãi suất kỳ hạn 12 tháng - 36 tháng từ 6,0-6,2%/năm, thậm chí nhiều ngâ
n hàng lớn thì chỉ từ 5,5-5,6%/năm.
Ở nhóm Big4, hiện Agribank, BIDV, Vietcombank có mức lãi suất cao nhất là 5,5%/năm, VietinBank là 5,6%/năm (đối với gửi tại quầy. Ngâ
n hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-op Bank) cũng có mức lãi suất tương đương. Trong đó, lãi suất cao nhất là 5,5%/năm khi gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
(Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị)
Lãi suất tiết kiệm đồng loạt
tăng, nhà giàu mang 100 tỷ gửi ngâ
n hàng
Bước sang tháng 12, một số ngâ
n hàng tiếp tục điều chỉnh
tăng lãi suất huy động. Lãi suất tiết kiệm cao nhất hiện nay là 7,1%/năm, thuộc về Techcombank, nhưng chỉ dành cho khách có 999 tỷ đồng trở lên và gửi 12 tháng, lĩnh cuối kỳ.
Nguồn bài viết : Club Royale